Tìm hiểu về Thiền - Mục đích & Nội Dung
Mục đích của mình khi thực tập Thiền đơn giản là tìm đến những phút thảnh thơi trong cuộc sống, chăm sóc tâm trí, điều hoà hơi thở, để có được sự thư giãn, thoải mái sau nhưng giờ học tập làm việc căng thẳng.
Trong
thời gian tìm hiểu về Thiền, mình đã rơi vào trạng thái mơ hồ vì có quá nhiều
khái niệm và phạm trù của Thiền. Bản
thân không theo một tôn giáo nào, Thiền là một từ thực sự khó định nghĩa và khiến
mình bối rối. Vì vậy mình chỉ đi sâu vào Thiền
Vipassana – dòng thiền cổ xưa nhất của
Phật Giáo. Mặc dù trước đây tại Việt
Nam, thiền Vipassana không được phổ biến rộng rãi, tuy nhiên gần đây thiền
Vipassana đang được phục hồi và phát triển, tất cả những ai có tâm hành thiền đều
có thể thực tập. Mình xin tổng hợp nội dung thành 3 phần:
Phần I: Tìm hiểu về Thiền? Thiền là gì?
Phần II: Những lợi ích Thiền đem lại.Phần III: Phân biệt giữa Thiền Định và Thiền Vipassana
Phần IV: Thực tập Thiền Vipassana.
Phần II: Những lợi ích Thiền đem lại.Phần III: Phân biệt giữa Thiền Định và Thiền Vipassana
Phần IV: Thực tập Thiền Vipassana.
Chúng ta cùng đi vào Phần I: Tìm hiểu về Thiền
Theo tự điển tiếng anh Oxford, Thiền là sự thực hành suy tư sâu sắc trong tĩnh lặng để cho tâm của người thực hành an tịnh. Còn tư điển Merriam-Webster thì đưa ra hai định nghĩa khác nhau: thứ nhất, thiền là ngâm mình trong sự trầm tư mặc tưởng hay sự phản tỉnh; thứ hai, thiền là tham dự vào việc luyện tâm (như tập trung vào hơi thở hay trì tụng một câu thần chú lặp đi lặp lại nhiều lần[1]) với mục đích hướng đến sự tỉnh thức tâm linh ở một cấp độ cao.
Và theo tự điển
Cambridge, thiền là hoạt đông hướng sự tập trung của bạn vào một đối tượng (có
thể là một hoạt động mang tính chất tôn giáo hoặc một phương thức nào đó để
được trầm tĩnh và buông xả).
Nói chung, tất cả những
định nghĩa này đều mang cùng một ý nghĩa: đó là sự nỗ lực hết mình để ràng buộc
tâm vào một điểm duy nhất vì dường như người ta không có khả năng tập trung vào
hai đối tượng trong cùng một thời điểm.
Suy cho cùng, chúng ta
thường có khuynh hướng dùng từ “thiền” để mô tả những sự thực tập có tính trầm
tư mặc tưởng hay những sự thực hành phản ánh sự suy nghiệm.
Dựa trên ý nghĩa này,
thiền không nhất định mang ý nghĩa tôn giáo. Mà đúng hơn, thiền là một phần tri
nghiệm tự nhiên của con người chúng ta, và nó có thể được dùng làm phương thuốc
trị liệu để gia tăng sức khỏe cũng như nâng cao hệ miễn dịch trong con người
chúng ta.
Bất kỳ ai ngắm nhìn mặt trời lúc hoàng hôn hay chiêm ngưỡng một
bức tranh nghệ thuật mà cảm thấy trầm tĩnh và nội tâm thanh thoát đều ít nhiều
thưởng thức gia vị của thiền. Nói như vậy, thiền Phật giáo là gì? Trước hết
chúng ta khảo sát thiền Phật giáo theo cách hiểu của ngươi bình thường trước.
Thiền Phật Giáo Theo Quan Điểm Bình Dân
Khi được hỏi về thiền,
ai trong chúng ta dường như đều có cùng câu trả lời bất kể chúng ta là ai đi
nữa. Người bình thường hay liên tưởng đến thiền Phật giáo theo một trật tự sau
đây: thứ nhất, thiền giả phải tìm một nơi thanh vắng như chùa, hay một góc
phòng, hay một khóa tu thiền; nghĩa là người ta phải tách mình ra khỏi đời sống
thường nhật bận rộn.
Điều tiếp theo họ nên
làm là ngồi kiết già, thẳng lưng, và nhắm mắt.
Sau cùng, họ điều chỉnh
sao đó để tập trung vào một đối tượng cụ thể.
Thiền của Đạo Phật nguyên thủy
Gồm có ba kỹ thuật chính
là Thiền Chánh Niệm( satibhavana), Thiền Định (samathabhavana) và Thiền Tuệ
Quán (vipassanabhavana). Đối với Đạo
Phật nguyên thủy, khi nói đến thiền nhất thiết phải phân biệt đó là Thiền Chánh
Niệm, Thiền Định hay Tuệ Quán.
- Thiền Chánh Niệm là phương pháp giữ Niệm (sati) trên bốn lãnh vực, gồm thân
thể, cảm giác, tâm và đối tượng của tâm (tứ niệm xứ)
- Thiền định còn gọi là Định hay Tịnh chỉ, là pháp an trú tâm trên một đối
tượng. Thường các nhà sư dung hơi thở là đối tượng để an trú tâm.
- Tuệ quán là công phu quán sát các đối
tượng, hiện tượng đang hiện hữu, diễn biến, xảy ra trong thân và tâm với mục
đích để nhìn thấy tính duyên hợp, vô thường và vô ngã của chúng. Mục đích của
Tuệ quán là tạo ra các tuệ cần thiết cho sự giác ngộ các quả thánh.
Cần nên biết: Thiền định
của Phật giáo nguyên thủy đưa đến bốn bậc thiền hữu sắc là sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền, tứ thiền, và bốn bậc thiền vô sắc là không vô biên xứ, thức vô biên
xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Những thiền định nói trên mặc
dù có nguồn gốc trước Đạo Phật và không đưa đến bốn đạo quả, nhưng vẫn là
kĩ thuật luyện tâm song song với pháp thiền quán. Pháp Tuệ Quán được coi là một
sáng tạo riêng của Đức Phật. Việc thực hành Tuệ quán cần sử dụng năng lực của
định (samadhi) để nhìn thấy rõ các pháp chân đế (paramattha) như chúng thực sự
là, cho nên công phu thiền định là một lợi thế cho thực hành thiền tuệ quán.
Theo một vài luận giải của Phật Giáo Nguyên Thủy thì Thiền Định (Samadhi) là
một công cụ cần thiết không thể thiếu để thực hành thành công Tuệ Quán (Vipassana).
Lời Kết
Chúng ta thấy không có
nhiều thay đổi trong phương pháp hành thiền từ thời đức Phật cho đến ngày hôm
nay. Điểm cốt lõi của thiền Phật giáo vẫn còn được lưu hành.
Một cách khái
quát, hành giả thiền tông cần thực hiện hai bước quan trọng: thứ nhất, nỗ
lực để an tịnh cái tâm của mình; thứ hai, cái tâm an tịnh sẽ giúp hành giả tuệ
tri sâu thẳm vào những gì mà họ thực sự muốn khám phá.
Trong ý nghĩa này, thiền
là trung tâm trong hệ thống giáo lý của đức Phật. Bất kỳ học thuyết nào mà đức
Phật đã thuyết giảng trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy đều có liên đới đến
thiền như chúng ta đã bàn khi nói về Kinh Đại Niệm Xứ.
Nói một cách khác, suốt
bốn mươi lăm năm đức Phật chỉ thuyết giảng hai điều: Khổ và con đường
đưa đến sự diệt Khổ. Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội
tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm
an tịnh mà thiền Phật giáo gọi là samatha (thiền chỉ).
Như mặt hồ phẳng lặng, với cái tâm an tịnh, người ta có thể nhìn thấu suốt những gì bên dưới nó. Đây là điều Phật giáo gọi là Vipassana (thiền quán).
Nguồn: PTVN & PhamDoan
0 nhận xét:
Đăng nhận xét